Mặc dù mức độ ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) tại Việt Nam còn chưa sánh ngang với các quốc gia hàng đầu trong khu vực châu Á, nhưng nước ta đang dần nắm bắt tiềm năng và cố gắng phát triển ngành công nghiệp AI để đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Theo ông Vũ Anh Tú, Giám đốc Công nghệ Tập đoàn FPT, AI là một công nghệ đột phá, với tiềm năng to lớn, công nghệ này đã được ứng dụng trong rất nhiều ngành, lĩnh vực tại Việt Nam…
AI ĐANG ĐƯỢC ỨNG DỤNG TRONG NHIỀU LĨNH VỰC
Nổi bật nhất là lĩnh vực ngân hàng, với việc ứng dụng AI, các ngân hàng đang ngày càng đổi mới mô hình kinh doanh và nâng cao trải nghiệm khách hàng. “Các ngân hàng đang sử dụng trợ lý AI như chatbot để đưa ra lời khuyên tài chính được cá nhân hóa và xử lý ngôn ngữ tự nhiên nhằm cung cấp dịch vụ khách hàng tự phục vụ. Ngoài ra, ngân hàng cũng sử dụng định danh điện tử (eKYC) để xác thực, hay sử dụng máy học (machine learning) để xây dựng các mô hình dự báo chính xác hơn, nhanh chóng hơn”, ông Vũ Anh Tú nói.
Không chỉ trong lĩnh vực ngân hàng, ở lĩnh vực y tế, giai đoạn Covid-19 vừa qua, các trợ lý AI (voice bot) đã thực hiện hàng triệu cuộc gọi, hỗ trợ ngành y kiểm soát, sàng lọc và truy vết các ca nhiễm. Trong giáo dục, thương mại, AI được ứng dụng để đa dạng hóa cách truyền tải nội dung, cá nhân hóa trải nghiệm mua sắm…
Điều đặc biệt, theo ông Vũ Anh Tú, đó là hầu hết các sản phẩm, giải pháp AI trên đều do các công ty công nghệ Việt Nam phát triển. Đây là kết quả của sự nỗ lực và đầu tư mạnh mẽ của các công ty vào AI. “Từ những tín hiệu trên, tôi cho rằng Việt Nam không có khoảng cách quá xa so với các nước trong khu vực về cả nghiên cứu lẫn ứng dụng AI trong thực tế”, Giám đốc Công nghệ FPT nhận định.
Chia sẻ chi tiết hơn về việc ứng dụng AI tại Việt Nam, ông Trung Huỳnh, CEO, nhà sáng lập Actable AI và ChatBD, cho biết hiện AI đang được ứng dụng mạnh mẽ tại nhiều ngành công nghiệp khác nhau tại Việt Nam. Trong lĩnh vực y tế, VinBigData đã sử dụng AI (VinDr) để trợ giúp các bác sĩ chẩn đoán bệnh tốt hơn. Trong lĩnh vực ngân hàng, nhiều ngân hàng đã ứng dụng AI đã giúp xác thực thông tin, nhận diện khách hàng thông qua hệ thống eKYC của FPT. Hay Techcombank đã ứng dụng AI phân tích dữ liệu mùa cao điểm rút tiền từ ATM để tăng cường dòng tiền và phân tích thông tin phòng chống gian lận.
Trong lĩnh vực công, nhiều tỉnh thành đã sử dụng công nghệ nhận dạng hình ảnh để định danh khách hàng và tự động hóa dịch vụ công. Gần đây nhất, quận Cầu Giấy, Hà Nội ra mắt chatbot dựa trên công nghệ ChatGPT để giúp công dân hỏi đáp các thủ tục hành chính của quận.
Báo cáo về chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo (AI) năm 2022 cho biết Việt Nam được xếp hạng 55 toàn cầu, trong khi Singapore xếp thứ 2, Malaysia 29, Thái Lan 31. Chỉ số này được tổng hợp từ 39 tiêu chí trong 3 nhóm cơ bản: chính sách của Chính phủ; lĩnh vực công nghệ và hạ tầng dữ liệu.
“Nhìn chung, Việt Nam đang xếp sau các nước trên trong cả 3 lĩnh vực. Tuy nhiên với đội ngũ nhân lực trẻ có nền tảng toán học và kỹ thuật tốt, tôi tin là với sự hỗ trợ và khích lệ thích hợp từ phía Chính phủ, chúng ta hoàn toàn có thể bắt kịp các nước khác trong khu vực như Malaysia hay Thái Lan”, ông Trung Huỳnh nói.
Theo TS. Nguyễn Thị Thu Trang, Giảng viên Trường Công nghệ thông tin và Truyền thông, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đồng sáng lập startup Vbee – một công ty khởi nghiệp ứng dụng AI hỗ trợ khách hàng của các doanh nghiệp, thì Việt Nam còn chưa có một hệ sinh thái phát triển AI vững chắc và các chính sách hỗ trợ phù hợp. So với một số quốc gia khác trong khu vực châu Á, mức độ ứng dụng AI tại Việt Nam vẫn trong giai đoạn khởi đầu.
Các quốc gia khác như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đều đã đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển AI trong nhiều năm qua. Trung Quốc đã đưa ra một chiến lược quốc gia về AI và tạo ra một số công ty công nghệ hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã đạt được tiến bộ đáng kể trong các lĩnh vực ứng dụng AI như xe tự hành, robot và các ứng dụng trong y tế và công nghiệp…
TS. Trang cho rằng hiện nay Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để có thể phát triển trí tuệ nhân tạo khi được Chính phủ quan tâm và có những chính sách hỗ trợ đầu tư và phát triển. Việt Nam có nền tảng công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, với hàng loạt các công ty khởi nghiệp công nghệ đang nổi lên, đặc biệt là trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.
Bên cạnh đó, Việt Nam có dân số trẻ, nguồn lao động chất lượng cao dồi dào và quan tâm đến việc học tập và làm việc trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Các trường đại học hàng đầu Việt Nam như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia TP.HCM đều đã có những ngành đào tạo chuyên ngành về trí tuệ nhân tạo. Đây là điều kiện rất thuận lợi để chúng ta có đủ nguồn lực tương lai trong việc phát triển AI sâu rộng trong các ngành công nghiệp và nhiều lĩnh vực.
NHẬN DIỆN NHỮNG THÁCH THỨC LỚN NHẤT
Tuy nhiên, việc triển khai trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức, như hạn chế về nguồn vốn và pháp lý, bảo mật thông tin, thiếu nhân lực chuyên môn, thiếu sự đầu tư một cách hệ thống về cơ sở hạ tầng công nghệ, thiếu sự phối hợp giữa doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và Chính phủ.
Hiện nay, nguồn lực chuyên gia về AI còn chưa đủ chín, số lượng chuyên gia AI có kỹ năng và kinh nghiệm đủ để triển khai các dự án lớn vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó, để phát triển và ứng dụng được trí tuệ nhân tạo vào đời sống cũng như các lĩnh vực một cách sâu rộng, cần nguồn vốn lớn. “Tuy nhiên, chúng ta đang thiếu một sự đầu tư có quy mô và toàn diện về cơ sở hạ tầng công nghệ để triển khai trí tuệ nhân tạo, về nghiên cứu khoa học cũng như những đầu tư cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty khởi nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này”, TS. Trang nhấn mạnh.
Việc áp dụng AI đặt ra nhiều vấn đề về quyền riêng tư, an ninh thông tin và trách nhiệm pháp lý. Việt Nam cần thiết lập các quy định pháp lý và khung chính sách rõ ràng để bảo vệ quyền riêng tư và đảm bảo an toàn thông tin.
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, ông Trung Huỳnh cũng đã đề cập đến những thách thức, trở ngại khi phát triển và ứng dụng công nghệ AI tại Việt Nam. Theo ông, ứng dụng AI một cách hiệu quả là một bài toán khó không chỉ cho các doanh nghiệp Việt Nam mà cả các nước tiên tiến như Anh, Mỹ. “Có nhiều lý do dẫn đến vấn đề này, trong đó vấn đề lớn nhất là sự sẵn sàng về dữ liệu”, ông Trung Huỳnh nói. “Các nhà khoa học dữ liệu cần có dữ liệu được tổ chức sẵn sàng để áp dụng các mô hình AI, tuy nhiên đa số các doanh nghiệp chưa chuẩn bị dữ liệu sẵn sàng đã đầu tư vào đội ngũ khoa học dữ liệu lớn, dẫn đến việc triển khai thiếu hiệu quả và tốn kém”.
Tư duy và tầm nhìn của đội ngũ lãnh đạo thiếu am hiểu về AI, dẫn đến hoặc là đầu tư hời hợt, hoặc là đầu tư quá nhiều vào một vị trí (như khoa học dữ liệu), trong khi ít đầu tư vào hạ tầng dữ liệu. Ở Việt Nam tuy đi sau thế giới, nhưng nếu nhận ra các bài học trên sẽ là lợi thế cho chúng ta ứng dụng AI hiệu quả.
Đối với trở ngại về thiếu hụt nhân sự trong lĩnh vực AI, ông Trung Huỳnh cho rằng thế hệ trẻ của Việt Nam đang tiếp cận AI rất nhanh chóng và các trường đại học ở Việt Nam cũng cũng đang có những chương trình đào tạo khá tốt.